star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

NÔNG NGHIỆP SINH THÁI HỮU CƠ

Nông nghiêp hữu cơ hay còn gọi canh tác hữu cơ là một hệ thống nông nghiệp luân canh có nguồn gốc từ thế kỷ 20 ra đời trong sự thay đổi nhanh chóng các hệ thống canh tác trên thế giới. Nông nghiệp hữu cơ liên tục được phát triển bởi tổ chức Nông nghiệp hữu cơ khác nhau cho đến ngày hôm nay. Canh tác này chủ yếu dựa vào phân bón có nguồn gốc hữu cơ như phân từ gia súc gia cầm, phân xanh, phân trộn, bột xương, … tăng độ phì cho đất bằng nhóm cây trồng có tac dụng cải tạo đất. Nhấn mạnh vào các kỹ thuật luân canh giống cây trồng, kiểm soát dịch hại sinh học, sử dụng xen canh cây trồng khắc chế dịch hại hoặc khuyến khích sự tồn tại động vật là thiên địch của sâu bệnh dịch hại.

Nhìn chung, mặc dù có những ngoại lệ, tiêu chuẩn hữu cơ được biên soạn để cho phép người canh tác sử dụng các hợp chất tự nhiên chất và nghiêm cấm hoặc hạn chế các chất tổng hợp trong canh tác.  Ví dụ, thuốc trừ sâu tự nhiên như pyrethrinrotenon được phép, trong khi phân bón tổng hợp và thuốc trừ sâu là nói chung là bị cấm. Một số chất tổng hợp được phép sử dụng như: đồng sunfat, bột lưu huỳnhivermectin. Cây trồng vật nuôi biến đổi gen, vật liệu na-nô, chất thải của người, chất điều hòa sinh trưởng thực vật, hoóc-môn, chất kháng sinh trong chăn nuôi đều bị cấm. Phương pháp nông nghiệp hữu cơ quốc tế quy định và thực thi trong khuôn khổ pháp luật của nhiều quốc gia, dựa phần lớn vào các tiêu chuẩn của Liên đoàn Quốc tế về trào nông nghiệp hữu cơ (IFOAM), một quốc tế tổ chức bảo trợ cho các tổ chức nông nghiệp hữu cơ được thành lập vào năm 1972[1].

Nông nghiệp hữu cơ có thể được định nghĩa:

"Là một hệ thống kỹ thuật nuôi trồng kết hợp hướng đến sự bền vững, tăng cường độ phì của đất và sự đa dạng sinh học. Nông nghiệp hữu cơ cấm sử dụng thuốc trừ sâu bệnh tổng hợp, thuốc kháng sinh, phân bón tổng hợp, sinh vật biến đổi gen, hoóc-môn tăng trưởng. mà phấn đấu cho sự bền vững, tăng cường độ phì của đất và sự đa dạng sinh học trong khi, với những ngoại lệ hiếm hoi, cấm thuốc trừ sâu tổng hợp, thuốc kháng sinh, phân bón tổng hợp, sinh vật biến đổi gen, và hormone tăng trưởng."[2]

Kể từ năm 1990, thị trường thực phẩm hữu cơ và các sản phẩm khác đã phát triển nhanh chóng, đạt 63 tỷ $ trên toàn thế giới vào năm 2012. Nhu cầu này đã thúc đẩy sự gia tăng tương ứng trong diện tích đất sản xuất nông nghiệp hưu cơ với 8,9% diện tích được gia tăng mỗi năm trong giai đoạn 2001-2011[3]. Năm 2011 đã có khoảng 37 triệu hecta đất sản xuất trên thế giới áp dụng nông nghiệp hữu cơ, tương đương 0,9% tổng diện tích đất nông nghiệp trên toàn thế giới.

Theo tổ chức IFOAM thì nông nghiệp hữu cơ (NNHC) dựa vào 4 trụ cột/nguyên tắc chính sau

  1. Sức khỏe: NNHC cần phải duy trì và làm tăng sức khỏe của đất, thực vật, động vật, con người và hành tinh cùng với nhau chứ không tách rời. Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng, sức khỏe của cá thể và cộng đồng không thể tách rời khỏi sức khỏe của hệ sinh thái. Đất khỏe sẽ tạo cho cây trồng khỏe và sẽ làm tăng sức khỏe của con người và động vật.
  2. Sinh thái: NNHC dựa vào hệ sinh thái sống động và chu trình tự nhiên của chúng, làm việc, tranh đua và duy trì chúng. Nguyên tắc này gắn NNHC sâu vào trong hệ sinh thái năng động. Nó cho thấy sản xuất phải được dựa vào các tiến trình của sinh thái và sự tái sinh. Để có được thức ăn và sức khỏe tốt phải thông qua sinh thái của môi trường sản xuất cụ thể. Ví dụ như đối với cây trồng thì cần có một môi trường đất sống động, đối với động vật nuôi cần có hệ sinh thái trang trại, đối với cá và các sinh vật biển là môi trường nước.
  3. Công bằng: NNHC cần xây dựng trên mối quan hệ đảm bảo tính công bằng cùng với sự quan tâm đến môi trường chung và những cơ hội sống cho tất cả các sinh vật. Sự công bằng được đề cập ở đây là sự hợp tình hợp lý, sự tôn trọng, trung thực và tận tình đối với con người và cả với những mối quan hệ của các đời sống khác ở xung quanh.
  4. Cẩn trọng: NNHC cần được quản lý theo cách phòng ngừa và có trách nhiệm để bảo vệ môi trường, sức khỏe và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai. Đó là những quan tâm chính trong việc lựa chọn cách quản lý, phát triển và áp dụng công nghệ trong NNHC. NNHC cần ngăn ngừa những khả năng rủi ro trước khi áp dụng công nghệ và không chấp nhận sử dụng những công nghệ không thể dự đoán được những hậu quả của nó như công nghệ gen chẳng hạn.
 

[1] Paull, John "From France to the World: The International Federation of Organic Agriculture Movements (IFOAM)", Journal of Social Research & Policy, 2010, 1(2):93-102.

[2] Danielle Treadwell, Jim Riddle, Mary Barbercheck, Deborah Cavanaugh-Grant, Ed Zaborski, ‘’Cooperative Extension System’’, What is organic farming?

[3] Paull, John (2011) "The Uptake of Organic Agriculture: A Decade of Worldwide Development", Journal of Social and Development Sciences, 2 (3), pp. 111-120.

A - Z Sitemap

Đào tạo, nghiên cứu gắn liền với khoa học và công nghệ nhằm tạo ra những sinh viên và học viên có lòng yêu nước, có phẩm chất nhân văn mang đậm bản sắc Việt Nam, có ý thức sinh hoạt cộng đồng, có sức khỏe, có năng lực và kỹ năng toàn diện, tự tin, năng động, sáng tạo và trở thành công dân khởi nghiệp mang tính toàn cầu.